Nguyễn Trãi

Thanh minh




Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ
(1),
Quá bán xuân quang tê cú hoa
(2).
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.



Dịch nghĩa

Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết.
Tạnh cơn mưa mây, trời chợt sáng,
Hoa đồ mi đã quá nửa chừng xuân.
Hãy cầm lấy chén rượu mà gượng uống,
Ðừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà.


Thanh Minh: tiết trời vào tháng ba âm lịch, thời gian dân chúng thường đi tảo mộ. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) có 2 câu 43-44 tả cảnh này:
Thanh minh trong tiết tháng ba
lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.


清   明

                 去,
                過。
                掃,
          盡   消   磨。
乍   晴    天   氣   模   稜   雨,
過   半    春   光   廝   句   花。
聊   把    一   杯   還   自   彊,
莫   教    日   日   苦   思   家。





Thanh minh
(Người dịch: nhóm Đào Duy Anh)

Luân lạc từ khi ra đất khách,
Thanh minh tính đã trải bao hồi.
Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng,
Thân cựu mười năm thảy rụng rơi.
Chợt tạnh mưa rào đương tiết dấy,
Nở hoa tê cú nửa xuân rồi.
Khuây nâng một chén còn nên gượng,
Đừng để nhớ nhà khổ chẳng thôi.


Chú thích:

(1). Mô lăng vũ: mưa không thường, tín thời tiết đặc biệt vào dịp Thanh Minh.
(2). Tê cú hoa: hoa bớt tươi thắm. Có sách chú theo bản chữ Hán là hoa đồ mi, liên quan đến rượu đồ mi Trung Quốc mà vua chúa thường mang thiết đãi quần thần vào dịp Thanh Minh.



Có tham khảo Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1998
Nguồn: thivien.net

Được bạn: diên vỹ sưu tầm / đưa lên
vào ngày: 5 tháng 2 năm 2013

Bình luận về Bài thơ "Thanh minh"